Lê Qúy
Mở đầu
Gần đây một thân hữu ở bên Mỹ, vốn biết tôi là người "đam mê" (xin đừng đọc là say mê) Truyện Kiều, gửi tặng tôi một cuốn sách nhan đề "Truyện Kiều và Tuổi Trẻ" (1) (TK&TT). Một món quà đã bay nửa vòng trái đất, lại là một cuốn sách nói đến Truyện Kiều, thì thật có gì quý bằng? Cuốn sách dày 694 trang, có nhiều đề mục khá đa dạng, mang tên ba tác giả: Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ. Cả ba tác giả hiện định cư tại Gia Nã Đại.
Theo lời dẫn của các tác giả, cuốn sách có in một phần viết bằng chữ Pháp, ngoài bìa có ghi KIÊU ET LA JEUNESSE (bên trong đề L"Histoire de Kieu et la Jeunesse) do ông Đặng Quốc Cơ viết. Bản này, vẫn theo lời nói đầu, "được ông Đặng Vũ Nhuế phiên dịch ra tiếng anh". Chỉ cần xem sơ qua người đọc có thể dễ nhận ra bản tiếng Anh khác khá nhiều với bản tiếng Pháp, chưa kể có nhiều chỗ thêm bớt.
Trong bài này tôi chỉ nói đến "giải thuyết Nôm học" do ông Lê Hữu Mục phụ trách, liên quan đến chữ Vùng trong câu 144. Như quý độc giả đã biết, trong tất cả các bản Kiều bằng quốc ngữ in từ trước đến nay, hai câu 143-144 tả lúc Kim Trọng đến gặp Kiều lần đầu tiên trong dịp lễ Thanh minh, đều được phiên từ Nôm ra như sau:
143 Hài văn lần bước dặm xanh,
144 Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Trong tác phẩm TK&TT ông Lê Hữu Mục đã sửa câu 144 và cho in như sau:
Một vung như thấy cây quỳnh cành dao.
Giải thuyết Nôm học về câu 144 của ông Lê Hữu Mục
Trong cuốn TK&TT tác giả Lê Hữu Mục đã trình bày khá rõ ràng (tr. 78-79, tr. 343) những lý do tại sao ông lại sửa câu 144 như vậy. Giải thuyết của ông rất mới mẻ, nếu không phải là táo bạo. Lý luận của ông có thể tóm tắt bằng 4 điểm chính sau đây:
Phiên âm chữ Vung từ chữ Nôm.
Ông viết:"Đây là phiên âm theo KOM" (Kiều Oánh Mậu; xin bạn đọc để ý là tôi sẽ viết rõ nhiều chữ viết tắt, hoặc chú thích thêm nghĩa của nhiều chữ, tuy rất là tầm thường đối với những vị cao học, nhưng tôi cho là cần thiết để giúp các bạn trẻ dễ theo dõi, LQ). Ý ông muốn nói là trong bản KOM chữ Nôm có bộ thổ (thổ là đất) nên phải đọc là vung (như cái vung để đậy, đa số nồi của người mình ngày xưa thường là nồi đất, LQ).
Ông còn nói thêm "Trong bản CMT" (Chu Manh Trinh, LQ)..."lại không đọc là vung (cái vung để đậy) mà phải đọc là vùng (vì có bộ thủy chỉ một nơi có nước như vùng đồng bằng có nhiều sông ngòi).
Nghĩa của chữ vung.
Ông giải thích nghĩa của chữ vung như sau: "Vung trong KOM là nói về dáng đi nhịp nhàng của Kim Trọng; lúc trông thấy Thúy Kiều từ đằng xa, chàng đã vội vàng xuống ngựa và từ từ tiến về phía Vương Quan, dáng đi khoan-thai và cố ý làm sao cất bước và giơ tay một cách vô cùng lịch sự." Nói tóm lại chữ vung của ông Lê Hữu Mục là để chỉ động tác vung tay nhịp nhàng lịch sự.
3. Công dụng của "cây quỳnh cành dao".
Tác giả cho rằng "cây quỳnh cành dao" là để chỉ Kim Trọng, chứ không phải để tả cảnh. Ông viết: "Chữ "cây quỳnh" là để chỉ thân hình của Kim Trọng; có lẽ người chàng cũng khá cao, cho nên Thúy Kiều mới có cảm tưởng đó là một loại cây quý, cây quỳnh, thức ngọc màu hồng".
4. Đổi chữ "thể" ra chữ "thấy".
Vẫn theo tác giả, chính Kiều là người đã "không bỏ sót một cử chỉ nào của Kim Trọng, nàng quan sát chàng rất kỹ". Ông còn thêm: "nàng không thấy đám cỏ xanh đâu nữa, chỉ thấy Kim Trọng với thân hình đẹp đẽ..". Cuối cùng ông kết luận là không thể chấp nhận "Một vùng như thể cây quỳnh cành dao".
Vài nhận xét về giải thuyết của ông Lê Hữu Mục.
Tôi đã đọc những lý luận cuả Giáo sư Lê Hữu Mục nhưng thấy chưa được thuyết phục nên mới mạn phép nêu lên những nhận xét sau đây.
1. Cách phiên âm. Để giải thích cách phiên âm của mình, ông Lê Hữu Mục viết (Sách đã dẫn, tr. 78): "Cả câu: Một vung như thấy cây quỳnh cành dao. Đây là phiên âm theo KOM". Ông lại xác định thêm: "Trong bản CMT, chữ "Nôm" (tác giả có dẫn trong Bảng Chữ Nôm phụ đính, LQ) lại không đọc là vung (cái vung để đậy) mà phải đọc là vùng (vì có bộ thủy chỉ một nơi có nước như vùng đồng bằng có nhiều sông ngòi)".
Tôi xem lại các bản Kiều chữ Nôm của tôi thì thấy trong các bản Thúy Kiều Truyện Tường Chú của Chiêm Vân Thị (2), Kim Vân Kiều của Xuân Phúc tức cố học giả Paul Schneider (3), Truyện Kiều Đốí chiếu Quốc ngữ của Vũ Văn Kính (4) (trong cuốn này ông Vũ Văn Kính đã ghi rõ những chữ dị biệt trong ba cuốn Kiều của Quán văn đường in năm 1925, bản Kiều Oánh Mậu in năm 1902 và bản của Duy Minh Thị in năm 1879), bản Đoạn Trường Tân Thanh của Kiều Ónh Mậu (Thành Thái Nhâm Dần 1902), tất thảy đều in chữ có bộ thổ đứng cạnh chữ phùng và đều được các dịch giả phiên là chữ vùng.
Điều này chứng tỏ rằng trong thời xưa, các cụ "cứ mạnh ai nấy đọc", chữ phùng có bộ thổ, hay bộ thủy (theo như ông LHM đã dẫn), đều có thể đọc được là "vùng" cả.
2. Cách viết chữ Vung, Vùng. Về các cách viết chữ vung và chữ vùng, cụ Nguyễn Khắc Nhân , người có kiến thức sâu rộng về Hán Nôm, có cho ý kiến như sau: "Dù có viết bộ thổ hay bộ thuỷ, những chữ đó đều có thể đọc là vung (cái vung để đậy) hay là vùng, tùy theo nghĩa của câu. Riêng trong câu 144, nếu đọc là vung thì không thể chấp nhận được."
3. Ba chữ Vùng trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dùng chữ vùng 3 lần trong Truyện Kiều. Trong câu 97 (Một vùng cỏ áy bóng tà) và câu 144 đã dẫn, cả 2 chữ vùng đều có bộ thổ + phùng. Chữ vùng thứ ba trong câu 261 (Một vùng cỏ mọc xanh rì), viết là bộ thủy + dụng (chữ dụng ở đây hẳn là do người miền Nam viết). Sự kiện người xưa tùy thích mà dùng bộ thổ hay bộ thủy chứng tỏ nhận xét của cụ Nguyễn Khắc Nhân nói trên là đúng.
4. Lối viết của những nhà làm từ điển. Khi nói đến chữ "vung" ông Lê Hữu Mục bỏ khá nhiều thì giờ để nói đến tự dạng. Thậm chí ông còn luận rõ ràng: "Taberd cũng phân biệt rất rõ: khi viết chữ vung thì ông dùng bộ thổ + bông, khi viết vùng thì ông dùng bộ thủy. Cách viết hợp-lí này được các nhà làm từ-điển lớp sau hoàn-toàn chấp-nhận; HTC và G (Huỳnh Tịnh Của và Génibrel, LQ) đều viết hai chữ vung và vùng đúng như Taberd đã viết".
Nhân việc ông Lê Hữu Mục dẫn Taberd, Huỳnh Tịnh Của, Génibrel, thiết tưởng ta cũng nên nói thêm ở đây về các tác giả này. Taberd hoàn thành 2 cuốn từ điển Annam-Latinh và Latinh-Annam, in ở Ấn độ năm 1838. Huỳnh Tịnh Của viết Đại Nam Quấc Âm Tự Vị năm 1895. Génibrel xuất bản từ điển Annam-Pháp (Dictionnaire Annamite-Francais, Saigon, 1898. Những tác phẩm của ba danh nhân này đều ra đời sau Truyện Kiều cả. Do đó sự kiện họ viết hợp-lý hay không chẳng có gì liên quan đến cách viết trong Truyện Kiều.
5. Ý nghĩa chữ vung. Để thuyết phục người đọc ông Lê Hữu Mục đã biện luận động tác vung tay của Kim Trọng (xem tóm tắt ở trên). Động tác vung tay ở đây không có khả năng thuyết phục mạnh mẽ. Trong ngôn ngữ ta, chữ vung gợi ra hình ảnh của một động tác mạnh, khá đột ngột, lắm khi lộ vẻ thiếu lịch sự. Ta vẫn thường nghe: nói vung ra, làm vung lên, vung mồm, vung tay, vung tay vung chân, vung văng v.v. Tuy Từ điển Tiếng Việt (5) có chua cụm từ vung vẩy là "đưa qua đưa lại một cách tự nhiên". Nhưng nếu tả một người đàn ông, dù là văn nhân, đang đi, đưa tay vung vẩy thì thấy người đàn ông có vẻ hơi yểu điệu, nếu không phải là có chút dáng dấp phái nữ, trông thật khó coi quá.
6. Một vung. Vung là một động từ. Động từ này làm cho chữ "Một" đứng trước nó trở thành một chữ rất khó hiểu. Một vung (số từ + động từ) nghĩa là thế nào? Nếu Nguyễn Du quả muốn dùng chữ "vung" thì cụ thiếu gì chữ khác để nói rõ hơn mà lại dùng "Một vung" ?
7. Âm vận. Nếu nói về âm vận, câu "Một vung như thấy cây quỳnh cành dao" nghe hơi chối tai. Chẳng lẽ Nguyễn Du lại chịu ép vận một câu thơ đến đỗi gượng gùng như thế?
8. Chữ Thấy. Nếu trong khi nói đến chữ "vung", ông Lê Hữu Mục đặt trọng tâm lý luận của mình vào tự dạng (có bộ thổ) thì khi đổi chữ "thể" sang chữ "thấy", ông không hề nói gì đến tự dạng cả. Nói khác đi, vì ông cho rằng Kiều "thấy" Kim Trọng ra sao thì ông ngang nhiên bỏ chữ "thể" đi và tự động thay nó bằng chữ "thấy". Tôi thiết nghĩ, cách sửa văn bản của cổ nhân như thế, nói nhẹ nhất, thật qủa là vội vàng, nếu không phải là hồ đồ, võ đoán.
9. Những chú giảng khác nhau về "Cây quỳnh cành dao". Đối với các bạn trẻ, nhất là các bạn trẻ sinh trưởng ở nước ngoài, ít khi tham khảo Truyện Kiều, tôi đề nghị ở đây chúng ta "phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông". Bốn chữ này trích từ điển tích cổ của Trung quốc, từ xưa vẫn thường được chú giảng hơi khác nhau. Thí dụ:
9.1 Nguyễn Văn Vĩnh (6): Phiên âm Truyện Kiều từ Nôm ra quốc ngữ la-tinh nhưng chú thích bằng tiếng Pháp. Ông viết như sau: "Tout ce coin ressemblait alors à une forêt dont les arbres fassent de rubis et les branches de pierres precieuses giao". (Tạm dịch: "Toàn vùng như thể là rừng có cây bằng ngọc quỳnh và cành bằng ngọc giao quý.", LQ)
9.2 Chiêm Vân Thị (Sđd, Quyển Thượng, tr. 96): "Cây quỳnh - Thế thuyết: Vương Nhung thời Tấn thường nói: Vương Diễn thần thái cao triệt, như dao lâm quỳnh thụ, tự thị phong trần ngoại vật: Vẻ đẹp tinh thần của Vương Diễn rất cao, như rừng dao, cây quỳnh. Có lẽ là hạng người ngoài vòng phong trần".
9.3 Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim (7): "Vương Diễn như quỳnh lâm giao thụ: ngươi Vương Diễn đẹp như cây ngọc-giao ở trong rừng ngọc-quỳnh. Đây nói một người rất đẹp."
9.4 Hà Huy Giáp, Nguyễn Thạch Giang (8): "Cây quỳnh cành dao: hai giống cây thường được đặt cạnh nhau để làm cảnh. Đây ý nói sự hài hòa giữa con người và phong cảnh thiên nhiên xung quanh. Kiều Oánh Mậu chú: "Thế thuyết: Vương Diễn thần thái như quỳnh lâm dao thụ phong trần ngoại vật", "Thần thái Vương Diễn đẹp như cây ngọc dao trong rừng ngọc quỳnh, như là vật ở ngoài cõi đời gió bụi".
9.5 Lê Văn Hòe (9): "Cả một vùng hóa đẹp như là một rừng những cây bằng ngọc quỳnh ngọc giao, ý nói khách (Kim Trọng) người xinh trai lắm, bước đến đâu thì làm đẹp đó.
9.6 Xuân Phúc (Paul Schneider) (Sđd: tr. 279): "Vương Diễn thần tú cao triệt như quỳnh thụ dao chi, tự nhiên thị phong trần ngoại vật (Thế thuyết). Vương Diễn avait dans son esprit et son apparence la noblesse et la pureté d"un arbre de rubis, d"une branche de jade; c"est un être en dehors de la poussière du monde. (Shi Shuo)". (Tạm dịch: "Vương Diễn, trong tinh thần cũng như trong hình dáng, có vẻ sang trọng và thanh cao của cây ngọc quỳnh, cành ngọc dao; quả là người ở ngoài cõi phong trần..", LQ)
Xem những dẫn chứng trên đây chúng ta đã thấy ngay trước đây đã có nhiều cách nhận xét khác nhau về cây quỳnh cành dao. Đấy là chưa kể những dị biệt nho nhỏ như: dao lâm quỳnh thụ (CVT), quỳnh lâm dao thụ (BK, TTK), quỳnh thụ giao chi (XP). Nhưng dù là vùng hóa đẹp vì có người đẹp, hay là vùng đang có (những) người đẹp. Câu hỏi ở đây là ai là người đẹp, ai thấy (những) người đẹp đó? Xin độc giả đọc tiếp.
10. Chỉ có một mình Kim Trọng là Cây quỳnh cành dao? Tôi đồng ý với ông Lê Hữu Mục ở chỗ ví Kim Trọng là "cây quỳnh cành dao". Và tôi chỉ có thể đồng ý ở mỗi một chỗ đó thôi. Tôi thiển nghĩ: chính Kiều cũng là "Cây quỳnh cành dao", bởi KIều đẹp, đẹp lộng lẫy, đẹp nghiêng nước nghiêng thành, trong khi Kim mới chỉ là "tài mạo tuyệt vời", nếu so với Kiều thì chưa đi đến đâu. Nếu có độc giả nào muốn kể thêm cả Thúy Vân, Vương Quan nữa, thì tuy tôi không "ham vơ vào", nhưng ít ra, tôi cũng không phản đối.
Người phương đông, khác với người phương tây, không nhất thiết phải dẫn điển tích rõ rệt theo số ít, số nhiều, giới nam, giới nữ. Ta vẫn thường nghe: bậc quân tử, những bậc quân tử, đồ Sở Khanh, những đồ (đứa, quân) Sở Khanh v.v. Lại thêm, tôi chưa có đủ lý do để chấp nhận chữ vung, tôi vẫn phải trung thành chấp nhận chữ "vùng", mà vùng rừng quỳnh thì không thể chỉ có một mình Kim Trọng được.
11. Thêm về "cây quỳnh cành dao". Cụ Nguyễn Khắc Nhân, tác giả Kim Kiều Hán Việt Truyện, đã dẫn trước đây, còn cho thêm ý kiến khá thú vị như sau. "Quỳnh dao là hai thứ cây quý, bao giờ cũng trồng đôi với nhau làm cảnh, làm cho nhà thêm vẻ đẹp đẽ, sang trọng. Cả hai cây còn dùng làm vị thuốc. Cây quỳnh có thân mà không có cành, nên là loại "không sinh", có thể xem là tượng trưng nam. Cây dao, "có sinh" cành tuy không có lá (râu ria? LQ), có thể xem là tượng trưng cho nữ. Kim Trọng, Kiều hóa chẳng phải cùng là đẹp đẽ, sang trọng, nam, nữ sao?"
12. Quay lại chữ "thấy". Ông Lê Hữu Mục cả quyết rằng chỉ có kiều là người "thấy" Kim trọng như là cây quỳnh cành dao. Ông nói thêm: "Nếu ta chuyển cái nhìn của Thúy Kiều hướng về cảnh vật chung quanh thì kĩ-thuật mô-tả của Nguyễn Du thiếu tập trung".
Tôi không nghĩ câu 144 là câu nói về cái nhìn của Thúy Kiều.
Ông Lê lại nói thêm: "Nguyễn Du không bao giờ tả cảnh để mà tả cảnh. Cảnh như vậy là một thứ cảnh không có linh hồn, một thứ cảnh chết". Tôi nghĩ Nguyễn Du không hề tả cảnh ở đây. Ở đây Nguyễn Du tả người: Kim Trọng và Thúy Kiều. Về điểm này, Giáo sư Nguyễn Văn Nha nêu lên hai điểm đáng để chúng ta chú ý. Thứ nhất, "không những Thúy Kiều không thể thấy Kim Trọng như cây quỳnh cành dao mà do "ngôị thứ ba" thấy, tức Nguyễn Du tả chung cả Kim Trọng với Kiều. Thứ hai, vung tay là "động", quỳnh dao là hai cây biểu hiệu cho "tĩnh"; do đó không thể vi động với tĩnh được.
13. Sửa văn bản. Nói đến việc sửa văn bản Truyện Kiều, tôi không thể không nhớ đến lời nói của Chiêm Vân Thị (Sđd: tr. 58): "Công việc đính chánh của chuyết-bản, cố ý muốn giữ lại sự thực của cổ-nhân, chứ không phải là tự khoe tài năng. Bởi thế cho nên gặp chữ nào lầm mà các bản đều chép giống nhau cả, thì tuy biết đích là đáng sửa, cũng vẫn chép nguyên văn, rồi tường chú ở dưới là, chữ này nên đổi ra chữ này ... Không hề lấy ý kiến riêng mình mà thay đổi một nửa chữ." Rất tiếc là cho đến nay, chúng ta vẫn chưa được hân hạnh tìm ra tiểu sử của Chiêm Vân Thị, nhưng cứ luận theo lời nói trên của ông, ta cũng có thể nhận ngay ra đó là lời nói cuả người trí thức cao thượng, thi hành việc sửa văn cổ bản rất nghiêm túc.
Thay lời kết
Trên đây chỉ là những nhận xét sơ thiển của người viết. Tôi xin độc giả tự quyền phán xét và kết luận.
Chiều nay (25-5-99) sau khi viết xong bài này tôi ghé lại nhà Gìáo sư Nguyễn Văn Nha để vấn an chị Nha mới ở bệnh viện về. Anh Nha cho tôi xem cuốn Từ Điển Tiếng Nôm của Vũ Văn Kính (10). Theo cuốn này, chữ vung có thể viết bằng 2 cách: Thổ + Bông hay Thủy+ Bông (Bông là chữ Nôm). Nhưng đó là cái vung đậy nồi.
Cuốn từ điển đó có ghi chữ vùng viết bằng 2 cách: Thổ + Phùng và Thủy + Phùng, đúng như lời cụ Nguyễn Khắc Nhân đã nêu lên trước đây.
Nhớ lại điều Giáo sư Lê Hữu Mục nói về văn bản của ông có chữ bông, tôi lấy làm thắc mắc. Lý do là photocopy bản KOM (Đoạn Trường Tân Thanh, Thành Thái Nhâm Dần 1902) của tôi không có chữ bông. Bản Thành Thái Bính NGọ 1906 cũng không có chữ bông. Như vậy bản KOM của ông Lê Hữu Mục là bản in năm nào? Hẳn phải là bản rất hiếm.
Trong những dẫn chứng của tôi ở trên, các chữ vùng đều có chữ phùng cả. Riêng trong bản KOM Nhâm Dần, chữ vùng in hơi lèm nhèm, bộ thổ in không rõ tuy tôi đã in phóng lớn lên gấp mấy lần. Trên đầu chữ phùng có thể có thêm bộ thảo. Nếu qủa là có bộ thảo, thì chữ này phải đọc là bồng (chữ Hán). Nói về tự dạng, bồng hay phùng chữ Hán hoàn toàn khác hẳn bông chữ Nôm. Còn nói về gợi âm, cả hai bồng, phùng đều đọc là vùng, không thể là vung được.
Sách tham khảo:
Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung, Đặng Quốc Cơ, Truyện Kiều và Tuổi Trẻ, Làng Văn, Canada, 1998, tr. 78-79.
Chiêm Vân Thị, Thuý Kiều Truyện Tường Chú, Nha Văn hóa, Bộ Giáo dục và Thanh niên, Tái bản lần thứ nhất, 1973, tr 96.
Xuân Phúc (Paul Schneider), Kim Vân Kiều, Roman-poème, Thanh Long, 1986, tr.VI.
Vũ Văn Kính, Truyện Kiều Đối chiếu chữ Nôm Quốc ngữ, Viện Bảo tàng Lịch sử TP Hồ Chí Minh, 1993, tr. 44.
Minh Tân, Thanh Nghi, Xuân Lãm, Từ Điển Tiếng Việt, Nhà Xuất bản Thanh hoá, 1988.
Nguyễn Văn Vĩnh, Kim Vân Kiều, Traduction en Francais, Ích Ký, Hà nội, 1912, Khai Tri" in lại tại Sài gòn, 1970, Quyển 1, tr. 36.
Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Truyện Thúy Kiều, Tân Việt, in lần thứ tám (không đề năm in), tr. 61.
Hà Huy Giáp, Nguyễn Thạch Giang, Truyện Kiều, Hà nội, 1973, tr. 353.
Lê Văn Hòe, Truyện Kiều Chú giải, viết năm Nhâm Thìn, Cơ sở xuất bản Zielks in lại tại Hoa kỳ không đề năm, tr. 28.
10. Vũ Văn Kính, Từ Điển Chữ Nôm, không đề năm in.